ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án

 | 

Án phí là một trong những những điều kiện để thụ lý vụ án, xuất hiện ở hầu hết các bản án, quyết định của Toà án khi giải quyết các vụ dân sự. Việc Tòa án quyết định về án phí, mức án phí, người phải chịu án phí, miễn, giảm án phí... là những vấn đề phức tạp, nếu quyết định không chính xác về án phí sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các tổ chức, cá nhân khi tham gia tố tụng tại Tòa án.

Bài viết sau đây có nội dung bàn về cách xác định nghĩa vụ chịu án phí trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự nói chung, cũng như trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản nói riêng, trong đó còn nhiều quan điểm khác nhau trong nhận thức của Thẩm phán, Kiểm sát viên, dẫn đến việc không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong việc tính án phí. Nghĩa vụ chịu án phí vụ án dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án được quy định tại Khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.

Theo quy định tại khoản 7, khoản 8 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch; Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 3 Điều 320 của Bộ luật tố tụng dân sự thì các đương sự phải chịu 50% án phí giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn”. Và khoản 1, khoản 2 Điều 147 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm; Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng”.

 Khoản 5 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 9 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Trong vụ án có người không phải chịu án phí hoặc được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm thì những người khác vẫn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm”.

Điều 147 BLTTDS 2015 và Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 đã quy định về nghĩa vụ chịu án phí, đặc biệt trong trường hợp các đương sự thỏa thuận. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc xác định và tính án phí dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và có đương sự được miễn, giảm án phí của một số Thẩm phán, Kiểm sát viên có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau, hiện có hai quan điểm như sau:

- Quan điểm thứ nhất: Tất cả các đương sự (cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) phải cùng chịu án phí khi họ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Nghĩa là, nguyên đơn và bị đơn cùng phải chịu án phí nên khi có 1 đương sự được miễn, giảm thì bên còn lại vẫn phải chịu án phí. Ví dụ như: Theo quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự: “Bị đơn là ông Nguyễn Văn A tự nguyện chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 60.000.000 đồng. Bị đơn là ông Nguyễn Văn A được chính quyền địa phương xác nhận hiện tại có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn nên được giảm 50% mức án phí mà ông A phải chịu theo khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 là 15.000.000 đồng nên phần còn lại ông A tự nguyện chịu là 45.000.000 đồng”. Theo như Quyết định công nhận thỏa thuận nêu trên thì bị đơn ông A phải chịu 1/2 án phí và nguyên đơn phải chịu 1/2 án phí, nên bị đơn chỉ được giảm án phí của họ. Điều này là bất lợi cho bị đơn, vì trong trường hợp này nếu xét xử, bị đơn sẽ được giảm 1/2 án phí, còn như thỏa thuận chỉ được giảm 1/4 án phí mà họ phải chịu.

- Quan điểm hai: Trong vụ án dân sự các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì việc xác định, tính án phí phải áp dụng theo nguyên tắc thứ tự quy định tại khoản 1 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 1, 2, 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, sau đó mới vận dụng trong trường hợp vụ án được thỏa thuận. Nghĩa là Tòa án phải xác định “đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận”. Và trong vụ án dân sự, việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của họ đối với nguyên đơn, thì họ không muốn tốn khoản án phí phải chịu 100% nếu xét xử nên họ thỏa thuận thời hạn, phương thức thực hiện nghĩa vụ cho nguyên đơn để được giảm 50% án phí. Do đó, trong trường hợp này nếu bị đơn được miễn giảm thì họ sẽ được miễn giảm theo nguyên tắc có lợi cho bị đơn, chứ không như trường hợp tính và xác định án phí như tại Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nêu trên. Kết quả, vẫn với ví dụ nêu trên thì bị đơn là ông Nguyễn Văn A sẽ chỉ phải chịu án phí là: 60.000.000 đồng x 50% x 50% = 15.000.000 đồng.

Như vậy, có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau trong việc xác định và tính án phí dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và có đương sự được miễn, giảm án phí. Việc vận dụng, nhận thức khác nhau về cách xác định nghĩa vụ chịu án phí, cách tính án phí dân sự trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và có đương sự được miễn, giảm án phí là rất phổ biến trong các vụ án dân sự, đặc biệt liên quan đến các vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, tranh chấp hợp đồng tín dụng. Mà nếu xác định và tính án phí như quan điểm thứ nhất thì sẽ ít nhiều gây bất lợi cho đương sự (hầu hết là bị đơn) đang có hoàn cảnh khó khăn, không đúng theo nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của đương sự mà pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự quy định. Do vậy, cần có văn bản hướng dẫn vấn đề này, để bảo đảm việc vận dụng xác định nghĩa vụ chịu án phí, xác định án phí trong vụ án dân sự mà các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và có đương sự được miễn, giảm án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 được thống nhất./.

Nguyễn Thị Kim Liên- Phòng 9

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:38,633,255
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:216.73.216.142