Trong thực tiễn quá trình qiải quyết các vụ án dân sự về tuyên hợp đồng vô hiệu còn có cách hiểu và cách tính khác nhau. Theo quy định, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, hoặc bồi thường thiệt hại (nếu có lỗi). Vậy khi tuyên buộc trách nhiệm chịu án phí thì như thế nào?
- Trường hợp thứ nhất: Một bên khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu, các bên hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận. Theo đó, nguyên đơn được coi là thắng kiện và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu, không kèm yêu cầu tài sản nhưng nếu có yêu cầu đòi tài sản, tiền thì bị đơn còn phải chịu án phí có giá ngạch theo giá trị tài sản, tiền phải trả.
- Trường hợp thứ hai: Cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận hợp đồng vô hiệu và cùng yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Khi đó, không có tranh chấp nên xác định các bên đương sự mỗi bên chịu một nửa án phí sơ thẩm không có giá ngạch; hoặc nếu có tranh chấp về tài sản thì án phí tính theo giá trị nghĩa vụ mỗi bên phải thực hiện.
Tuy nhiên, trong thực tế khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng vô hiệu, một số bản án còn chưa có sự chưa thống nhất: Có trường hợp Tòa án buộc nguyên đơn phải chịu án phí vì là người khởi kiện; có trường hợp lại buộc bị đơn chịu án phí do là bên vi phạm làm hợp đồng vô hiệu; cũng có trường hợp chia án phí cho cả hai bên.
Ví dụ, Bản án sơ thẩm số 28/2025/DSST ngày 20/5/2025 của Tòa án nhân dân thành phố B: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/9/2021 giữa bên chuyển nhượng: Ông Nguyễn Văn M với bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị H được công chứng tại Văn phòng Công chứng C tỉnh N là vô hiệu và không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Đồng thời, bị đơn cũng có yêu cầu phản tố đề nghị tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là vô hiệu và cũng không yêu cầu giải quyết hậu quả. Bản án xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn đều xác nhận không có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đều đề nghị Toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tiền. Do vậy, Bản án xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là vô hiệu.
Về án phí: Tòa án thành phố B buộc bà H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí đối với yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
Theo quan điểm cá nhân trong trường hợp nêu trên do cả hai bên đều đề nghị tuyên bố hợp đồng vô hiệu, không có tranh chấp tài sản nên án phí theo hướng mỗi bên chịu một nửa án phí sơ thẩm không có giá ngạch. Nếu có yêu cầu tài sản, án phí sẽ tính theo nghĩa vụ cụ thể mà mỗi bên phải thực hiện. Cách tính để áp dụng này vừa bảo đảm công bằng, vừa phù hợp tinh thần Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Qua bài viết này, rất mong các đồng chí, đồng nghiệp có các trao đổi để cùng nhau thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của ngành./.