Vụ án “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố Văn bản công chứng vô hiệu, giữa nguyên đơn là ông A với bị đơn là bà B. Ngày 19/6/2018 tại Văn phòng Công chứng T&T, ông A và bà B có ký “Văn bản thỏa thuận tài sản riêng vợ chồng”, hai bên thỏa thuận thống nhất toàn bộ nhà đất số 279 (phường TX, thành phố H) là tài sản riêng của bà B (đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ngày 29/8/2021 ông A khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố “Văn bản thỏa thuận tài sản riêng vợ chồng” nêu trên là vô hiệu. Tại phiên Tòa sơ thẩm, bị đơn (bà B) yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện do đã hết thời hiệu, đề nghị hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết vụ án.
Tòa án sơ thẩm giải quyết vụ án trên có hai quan điểm như sau:
1. Qua điểm thứ nhất: Văn bản công chứng trên căn cứ vào hợp đồng mua bán nhà, các giấy tờ liên quan và ý chí của hai bên thỏa thuận tài sản trên là của bà B vì tiền mua là của riêng bà B là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Văn bản công chứng trên đã vi phạm điều cấm vì khi thỏa thuận nhà đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nhà đất mới ký hợp đồng mua bán với Công ty Đầu tư - Xây dựng X). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015, tuyên bố “Văn bản thỏa thuận tài sản riêng vợ chồng” nêu trên vô hiệu.
2. Quan điểm thứ hai: Căn cứ “Văn bản thỏa thuận tài sản riêng vợ chồng” công chứng ngày 19/6/2018, đến ngày 29/8/2021 nguyên đơn (ông A) mới khởi kiện. Tại phiên Tòa sơ thẩm, bị đơn có yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện. Theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về áp dụng thời hiệu, Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, do đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết nên Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là không đúng mà phải Đình chỉ giải quyết vụ án.
Tác giả đồng tình với qua điểm thứ hai. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp!
Lê Đình Tuấn- Phòng 9