Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2025 được Quốc hội Khóa XV, Kỳ họp thứ 9 thông qua, có hiệu lực từ 01/7/2025. Luật chủ yếu sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của các Tòa án. Theo đó, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Khi kiểm sát giải quyết các vụ án có yếu tố nước người, kiểm sát viên cần lưu ý kiểm sát các hoạt động gửi hồ sơ yêu cầu tống đạt, ủy thác tư pháp văn bản tố tụng ra nước ngoài để đảm bảo đúng quy định pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích cho các đương sự.
Thứ nhất, đối với các vụ án Tòa án đề nghị Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài tống đạt văn bản tố tụng
Khi Tòa án đề nghị Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước sở tại thì kiểm sát viên phải kiểm sát việc Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy trình, quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2019/TTLT-TANDTC-BNG ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao “Quy định về trình tự, thủ tục phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính ở nước ngoài” hay không (sau đây gọi tắt là TTLT số 01/2019).
Theo quy trình này, Tòa án phải chuyển trước chi phí tống đạt văn bản tố tụng cho Đại sứ quán. Sau khi nhận được chi phí và hồ sơ tống đạt, Đại sứ quán sử dụng chi phí đó để thanh toán tiền cước bưu chính gửi hồ sơ của Tòa án cho đương sự và gửi kết quả thực hiện tống đạt về Việt Nam cho Tòa án.
Vì vậy, trong quá trình phối hợp với Đại sứ quán thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài, cần lưu ý:
- Trường hợp Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy trình quy định tại TTLT số 01/2019 khi đề nghị Đại sứ quán tống đạt văn bản tố tụng và đã quá 03 tháng, kể từ ngày Tòa án gửi hồ sơ tống đạt cho Đại sứ quán nhưng chưa nhận được kết quả tống đạt, thì Tòa án cần chủ động liên hệ qua thư điện tử hoặc có văn bản gửi Đại sứ quán. Đồng thời, Tòa án có văn bản gửi Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế) đề nghị hỗ trợ. Trong văn bản, Tòa án cần nêu rõ thông tin cơ bản về hồ sơ (số, ngày thụ lý vụ việc, loại việc, họ tên, địa chỉ của đương sự ở nước ngoài cần được tống đạt), xác nhận đã chuyển chi phí tống đạt, thời gian đã chuyển hồ sơ cho Đại sứ quán. Trên cơ sở đó, Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị Bộ Ngoại giao chỉ đạo Đại sứ quán sớm thực hiện các công việc cần thiết để gửi kết quả tống đạt văn bản tố tụng cho Tòa án.
Trường hợp Tòa án đã thực hiện như trên nhưng đến khi mở phiên tòa vẫn không nhận được kết quả tống đạt từ Đại sứ quán, thì sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án lập văn bản đề nghị Đại sứ quán trả lời kết quả thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Trường hợp Tòa án chỉ chuyển hồ sơ tống đạt mà không chuyển trước chi phí tống đạt cho Đại sứ quán, thì việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo đề nghị của Tòa án sẽ không được Đại sứ quán thực hiện. Trong trường hợp này, Tòa án bắt buộc phải thực hiện lại việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài mà không được chờ kết quả tống đạt văn bản tố tụng từ Đại sứ quán.
Khi tống đạt lại văn bản tố tụng, Tòa án có thể tiếp tục đề nghị Đại sứ quán thực hiện hoặc áp dụng phương thức gửi theo đường bưu chính.
Thứ hai, kiểm sát về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo đường bưu chính
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có thể tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài, bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, theo đường bưu chính với điều kiện pháp luật của nước nơi đương sự có địa chỉ đồng ý với cách thức tống đạt này.
Để thuận tiện cho việc áp dụng quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017 và Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/03/2021 cung cấp, cập nhật thông tin cho các Tòa án về những nước phản đối và không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính.
Tòa án có thể áp dụng phương thức tống đạt theo đường bưu chính trong những trường hợp sau đây:
-Tòa án đã thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của TTLT số 01/2019 hoặc ủy thác tư pháp cho nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp nhưng xét thấy có khả năng hoặc trên thực tế việc nhận được kết quả thực hiện tống đạt từ Đại sứ quán, Bộ Tư pháp có chậm trễ, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ việc.
Việc áp dụng thêm phương thức tống đạt theo đường bưu chính nhằm tạo điều kiện cho Tòa án nhận được kết quả tống đạt sớm hơn so với việc Tòa án đề nghị Đại sứ quán, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tống đạt. Kết quả tống đạt theo phương thức này có giá trị pháp lý như phương thức tống đạt thông qua Đại sứ quán hoặc phương thức ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp;
Tòa án phải tống đạt lại văn bản tố tụng do không thực hiện đúng, đầy đủ quy định của TTLT số 01/2019.
- Tòa án tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo đường bưu chính bằng dịch vụ bưu phẩm bảo đảm có gắn số hiệu để định vị, theo dõi quá trình chuyển phát.
Để nhận kết quả chuyển phát bưu phẩm, Tòa án đề nghị công ty bưu chính hướng dẫn cách sử dụng mã vận đơn hoặc mã bưu gửi (là dãy số hoặc tố hợp dãy số cùng chữ cái in ở góc phải hoặc góc trái trên vận đơn hoặc phiếu bưu gửi) để tra cứu trực tuyến, in ra thông báo kết quả chuyển phát bưu phẩm.
Kết quả chuyển phát bưu chính có giá trị pháp lý xác nhận kết quả tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; là căn cứ để Tòa án xác định việc tống đạt văn bản tố tụng đã hoàn thành, đương sự đã nhận được văn bản tố tụng hoặc Tòa án phải tống đạt lại với lý do việc tống đạt không thực hiện được vì không đúng địa chỉ của đương sự, địa chỉ của đương sự thiếu chi tiết hoặc đương sự đã chuyển đến địa chỉ mới nhưng không rõ địa chỉ mới.
- Tòa án không áp dụng phương thức tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính đối với đương sự có địa chỉ tại nước không thuộc danh sách được liệt kê tại Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao, kể cả trường hợp Tòa án chưa nhận được kết quả tống đạt từ Đại sứ quán hoặc kết quả ủy thác tư pháp do nước đó thực hiện cho Tòa án.
Trong trường hợp này, Tòa án bắt buộc phải chờ kết quả tống đạt từ Đại sứ quán hoặc kết quả thực hiện ủy thác của nước ngoài gửi thông qua Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong thời gian chờ, Tòa án cũng cần tích cực liên hệ với Đại sứ quán, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để thúc đẩy việc sớm có được kết quả thực hiện ủy thác tư pháp.
Thứ ba, kiểm sát về việc Tòa án ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện việc tống đạt, thu thập chứng cứ
Khi ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự”.
Khi lập hồ sơ yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án có thể gửi kèm trong hồ sơ bảng câu hỏi để đương sự tự trả lời và gửi văn bản trả lời trực tiếp cho Tòa án.
Thứ tư, siểm sát về chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài
Theo quy định của Hiệp định/Thỏa thuận tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với 18 nước, vùng lãnh thổ gồm: An-gỉê-rỉ, Bê-la-rủt, Ba Lan, Bun-ga-rỉ, Cu Ba, Cam-pu-chỉa, Ca-dắc-xtan, Lãnh thổ Đài Loan, Hung-ga-ri, Lào, Mông Cố, Nga, Pháp, Séc, Triều Tiên, Trung Quốc, U-crai-na, Xlô-va-ki-a, thì hai bên thực hiện miễn phí cho nhau các yêu cầu tương trợ tư pháp. Cùng với đó, theo quy định của Công ước tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (sau đây gọi tắt là Công ước tống đạt giấy tờ) mà Việt Nam là thành viên, thì nước thành viên được yêu cầu tống đạt thực hiện miễn phí yêu cầu tống đạt của nước thành viên khác, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp quá số tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp cho Cục thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của TTLT số 12/2016. Tòa án chỉ yêu cầu đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật.
Trên đây là một số lưu ý để Kiểm sát viên khi kiểm sát các hoạt động gửi hồ sơ, ủy thác tư pháp ra nước ngoài của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án có đương sự ở nước ngoài để đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định pháp luật và bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự./.