ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Trao đổi bài viết: Áp dụng pháp luật thế nào cho đúng đối với hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của Trần Văn H?

 | 

Sau khi bài viết trao đổi “Áp dụng pháp luật thế nào cho đúng đối với hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của Trần Văn H?”của tác giả Nguyễn Thị Nghĩa - Phòng 1, VKSND tỉnh đăng trên Trang tin điện tử, Ban biên tập nhận được 01 ý kiến phản hồi của tác giả Đặng Việt Dũng- VKSND khu vực 2 với nội dung đồng tình quan điểm thứ hai: “Chỉ nên xử lý vi phạm hành chính đối với Trần Văn H”, bởi lẽ:

Tại khoản 1 Điều 304 BLHS quy định: “Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.”. Tại điểm g khoản 2 Điều 304 BLHS có quy định tình tiết định khung tăng nặng “Vật phạm pháp có số lượng lớn...” và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2022-NQ-HĐTP ngày 09/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tại điểm b, c khoản 1 Điều 4 của Nghị quyết 03 quy định: Đạn bộ binh cỡ 11,43 ly trở xuống: 301 đến 1.000 viên; Đạn súng máy cao xạ cỡ 12, 7 ly đến 25 ly: từ 201 đến 600 viên. Quy định trên không yêu cầu về số lượng tối thiểu vũ khí quân dụng là bao nhiêu để xác định tội phạm. Do vậy, có thể căn cứ vào số lượng 10 viên đạn (sau giám định xác định là đạn thuộc vũ khí quân dụng) để xác định hành vi của Trần Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 304 BLHS.

Tuy nhiên H chưa có tiền án, tiền sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi liên quan đến vũ khí, chưa gây hậu quả về tính mạng, sức khoẻ, tài sản người khác; với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nêu trên thì chỉ nên xử phạt vi phạm hành chính đối với H.

Dù vậy trước khi xử phạt vi phạm hành chính đối với H, cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện nghiêm quy định tại Điều 6 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP đó là “Khi phát hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 1, điểm c khoản 2, điểm b khoản 3, các điểm b và c khoản 4, các điểm a và d khoản 5 Điều 7; các điểm b và c khoản 4 Điều 9; điểm a khoản 3, các điểm a và b khoản 4 Điều 10; điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 11…thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự có quyết định không khởi tố vụ án hình sự; quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự; quyết định đình chỉ điều tra bị can; quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với bị can; quyết địnhđình chỉ vụ án; quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và trả lại hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến, thì chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 62 và Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định này”./.

Ban biên tập

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:38,456,976
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:216.73.216.24