ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Một số điểm giống và khác nhau giữa Luật doanh nghiệp 2014 với Luật doanh nghiệp 2020 và một số lưu ý khi áp dụng pháp luật trong kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại

 | 

1. Về thời hiệu

Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về thời hiệu giống nhau, tuy nhiên có thay đổi về áp dụng điều luật, cụ thể:

Đối với yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định tại Điều 147 thời hiệu khởi kiện là "Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 114 của Luật này có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông..."

Đối với yêu cầu hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định tại Điều 151 thời hiệu khởi kiện là "Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật này có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông....

Đối với yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về thời hiệu tại điểm d, khoản 8 Điều 50 là "Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc họp Hội đồng thành viên, nếu trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết đó không thực hiện đúng hoặc không phù hợp với quy định của Luật này và Điều lệ công ty".

Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về thời hiệu tại  điểm d, khoản 2 Điều 49 là: "Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc họp Hội đồng thành viên, nếu trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết đó không thực hiện đúng hoặc không phù hợp với quy định của Luật này và Điều lệ công ty"

Riêng tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì Thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 30 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000: "Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp". Đến khi Luật Kinh doanh bảo hiểmnăm 2022có hiệu lực không quy định về thời hiệu khởi kiện hợp đồng bảo hiểm nữa, nên thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm được áp dụng theo quy định chung tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015: "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm".

2. Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng đối với các vụ án liên quan đến doanh nghiệp

Tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, khi tham gia tố tụng phải xác định ông/ bà...) chủ doanh nghiệp tư nhân ... tham gia tố tụng theo quy định tại Khoản 1 Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2014 và quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020: "Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp".

Tranh chấp khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì việc xác định người tham gia tố tụng áp dụng quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 74 BLTTDS năm 2015: "Trường hợp tố chức phải châm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng". (Trước đây, áp dụng khoản 6 Điều 158 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: "Người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán". Đến khi Luật Doanh nghiệp năm 2020 có hiệu lực không quy định về nội dung này, nên việc xác định người tham gia tố tụng khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể áp dụng căn cứ chung theo điểm a, khoản 2 Điều 74 BLTTDS năm 2015.

3. Lưu ý khác

Giao dịch dân sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện khi có tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết thì phải căn cứ khoản 6 Điều 84 BLDS năm 2015 quy định: "Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện" để xác định pháp nhân tham gia tố tụng, chứ không được xác định chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch của pháp nhân tham gia tố tụng.

Đối với yêu cầu phát mại tài sản theo Hợp đồng thế chấp khi chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất (nhà xưởng, công trình...) không thế chấp quyền sử dụng đất thì không được tuyên cả việc phát mãi quyền sử dụng đất (vi phạm nguyên tắc thỏa thuận của các bên) và Hợp đồng thế chấp đối với quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm thì không chấp nhận yêu cầu phát mại (điểm b, khoản 1 Điều 34 Luật Đất đai năm 2024)./.  

Giáp Thị Thủy – Phòng 10 Viện KSND tỉnh Bắc Ninh 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:38,206,415
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:216.73.216.10