ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Bàn về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu

 | 

Hợp đồng (giao dịch dân sự) vô hiệu là hợp đồng đã tồn tại nhưng không đáp ứng một hay nhiều điều kiện có hiệu lực mà pháp luật về hợp đồng đã yêu cầu hoặc trong trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi một hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên tham gia hợp đồng sẽ phải giải quyết hậu quả pháp lý, bao gồm việc khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả những gì đã nhận, hoặc bồi thường thiệt hại nếu không thể hoàn trả… Việc giải quyết hậu quả này nhằm đảm bảo sự công bằng và khôi phục lại tình trạng trước khi giao kết hợp đồng vô hiệu.

Theo Điều 122 Bộ luật Dân sự năm  2015 thì “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác” và khoản 1 Điều 407 Bộ luật Dân sự năm  2015 “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”; trong đó Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định về “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”.

Trong nhiều trường hợp Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu là đúng pháp luật, nhưng giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu không đúng quy định. Ví dụ: Năm 2018, ông A được Ủy ban nhân dân tỉnh N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 12/01/2022 bà B (vợ ông A) bán ngôi nhà trên cho vợ chồng ông C và bà D với giá 3.000.000.000 đồng; bà B đã nhận 1.000.000.000 đồng và ký giả chữ ký của ông A. Ngày 29/5/2022, vợ chồng ông C bà D được sang tên nhà đất nêu trên. Khi xảy ra tranh chấp, ông A bà B yêu cầu hủy hợp đồng; vợ chồng ông C, bà D yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán trên.

Tòa án cấp sơ thẩm hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất; buộc bà B trả cho vợ chồng ông C và bà D 1.000.000.000 đồng. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu của các đương sự giải quyết thành vụ án khác khi có yêu cầu. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác là không đúng, chưa giải quyết triệt để vụ án theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong trường hợp đương sự yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì cần phải áp dụng Bộ luật Dân sự 2015 và hướng dẫn tại Mục 2 Phần III Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ, đó là: Khi giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án. Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; trừ trường hợp đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba./.

Lê Đình Tuấn- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Ninh

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:38,206,456
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:216.73.216.10