Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của các đương sự là một nguyên tắc cơ bản, được pháp luật thừa nhận và khuyến khích. Nguyên tắc này thể hiện qua việc pháp luật cho phép các bên được tự do thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp, bao gồm cả khả năng tự hòa giải, tự thương lượng và yêu cầu Toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó. Và quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án biến thỏa thuận dân sự hợp pháp thành văn bản có hiệu lực pháp lý, bảo vệ quyền lợi các bên và có thể thi hành cưỡng chế, đồng thờigiảm thiểu tranh chấp và chi phí tố tụng.
Tôi xin đưa ra 1 tình huống cụ thể xảy ra trong thực tiễn như sau:Bà B ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng A. Hợp đồng vay thể hiện rõ lãi suất vay, lãi suất quá hạn và lãi suất chậm trả, trong đó lãi suất chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Quá hạn trả nợ, bà B không trả nên Ngân hàng A khởi kiện bà B yêu cầu trả tiền gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả. Tại phiên hòa giải, A cung cấp bảng tính chi tiết tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả, trong đó có lãi chậm trả lãi và 2 bên thống nhất về số tiền nợ như Ngân hàng đã tính. Tòa án đã lập biên bản hòa giải thành giữa 2 bên. Tuy nhiên, phần lãi chậm trả lãi được bên Ngân hàng tính và yêu cầu bị đơn phải thanh toán vượt quá quy định của hợp đồng đã ký (gấp hơn 10 lần quy định tối đa trong hợp đồng(10%/năm) và gấp hơn 5 lần tối đa theo quy định tại Điều 468 BLDS (không quá 20%/năm).
Vậy trong trường hợp cụ thể này thì Tòa án có phải kiểm tra tính hợp pháp của sự thỏa thuận của các đương sự hay không? Có được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hay khôngkhi có phần thỏa thuận trái quy định của pháp luật?
Đối với tình huống nêu trên, hiện có 02 quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Nếu các bên đã đạt được sự thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì Tòa án không phải kiểm tra tính hợp pháp của các thỏa thuận đó và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận trong mọi trường hợp.
Quan điểm thứ hai: Tòa án phải kiểm tra tính hợp pháp của sự thỏa thuận và chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận khi đảm bảo các điều kiện quy định của pháp luật. Trường hợp có một phần thỏa thuận trái pháp luật thì Tòa án không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận và phải đưa vụ án ra xét xử để ban hành bản án, trong đó phần thỏa thuận đúng quy định sẽ được công nhận trong bản án, phần không đúng quy định của pháp luật sẽ không được chấp nhận.
Tôi đồng tình với quan điểm thứ hai.Rất mong nhận được sự trao đổi của các đồng nghiệp.
Ngô Phương Dung – VKSND khu vực 7


















Thông tin tuyển dụng, đấu thầu, thanh lý