Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của các đương sự là một nguyên tắc cơ bản, được pháp luật thừa nhận và khuyến khích. Nguyên tắc này thể hiện qua việc pháp luật cho phép các bên được tự do thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp, bao gồm cả khả năng tự hòa giải, tự thương lượng và yêu cầu Toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử đối với những vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng vay tiền, có những trường hợp các đương sự đạt được thỏa thuận về các nội dung liên quan đến nghĩa vụ tài chính phải thực hiện như tiền gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả... nhưng một phần trong thỏa thuận đó lại vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép như lãi chậm trả vượt quá quy định của pháp luật thì vấn đề đặt ra là Tòa án có được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận không? Và Tòa án có trách nhiệm phải kiểm tra xem sự thỏa thuận đó có đúng quy định của pháp luật hay không?
Đối với tình huống nêu trên, hiện có 02 quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Nếu các bên đã đạt được sự thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì Tòa án không phải kiểm tra tính hợp pháp của các thỏa thuận đó và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận trong mọi trường hợp.
Quan điểm thứ hai: Tòa án phải kiểm tra tính hợp pháp của sự thỏa thuận và chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận khi đảm bảo các điều kiện quy định của pháp luật. Trường hợp có một phần thỏa thuận trái pháp luật thì Tòa án không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận và phải đưa vụ án ra xét xử để ban hành bản án.
Tôi đồng tình với quan điểm thứ hai bởi quyền tự định đoạt của các bên không phải là quyền tuyệt đối, mà bị giới hạn bởi các quy phạm pháp luật bắt buộc. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định tại Điều 212 về việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, trong quá trình giải quyết vụ án, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, Toà án có thể ra quyết định công nhận thỏa thuận đó, với điều kiện thỏa thuận phải là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Quy định này đặt ra ba tiêu chí mang tính giới hạn: sự tự nguyện, tính hợp pháp và đạo đức. Trong đó, tính hợp pháp là tiêu chí bắt buộc, thể hiện vai trò của pháp luật như một giới hạn đối với ý chí chủ quan của các đương sự. Điều đó cũng có nghĩa rằng, Toà án không được công nhận bất kỳ thỏa thuận nào dù tự nguyện nhưng lại có nội dung vi phạm pháp luật. Trong mọi trường hợp, Toà án không chỉ là cơ quan ghi nhận sự thỏa thuận, mà còn có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp và phù hợp với đạo đức xã hội của nội dung thỏa thuận đó. Việc Toà án ra quyết định công nhận một thỏa thuận có nội dung trái luật không chỉ là vi phạm tố tụng mà còn có thể gây ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bên, làm suy giảm tính nghiêm minh của pháp luật và vai trò bảo vệ công lý của Toà án. Hơn nữa, quyết định công nhận sự thỏa thuận có hiệu lực ngay và không bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm (khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015), nên nếu Toà án thiếu thận trọng trong việc kiểm tra nội dung, hậu quả pháp lý sẽ rất nghiêm trọng, chỉ có thể khắc phục thông qua thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trên đây là quan điểm của tôi về tình huống đặt ra trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự. Rất mong nhận được sự trao đổi của các đồng nghiệp.
Ngô Phương Dung- VKSND Khu vực 7


















Thông tin tuyển dụng, đấu thầu, thanh lý